admin Admin
Tổng số bài gửi : 91 Points : 225 Reputation : 4 Join date : 30/08/2011 Age : 36 Đến từ : Bắc Ninh
| Tiêu đề: Bài tập tình huống luật hình sự Wed Aug 31, 2011 10:42 pm | |
| Khi xã hội ngày càngphát triển, đời sống con người ngày càng một nâng cao thì kéo theo đó những tệnạn xã hội cũng có xu hướng gia tăng nhất là các tội phạm xâm phạm tới quan hệsở hữu. Để có biện pháp đấu tranh loại tội này có hiệu quả trước tiên thì taphải hiểu rõ dấu hiệu pháp lý của từng loại tội, phải phân biệt được tội nàyvới tội kia. Có như vậy mới định tội danh và định khung hình phạt được chínhxác. Nói như vậy nhưng trên thực tế có nhiều vụ án để định tội cho thật chínhxác là điều không phải dễ dàng, do đó mà vẫn tồn tại nhiều vụ án oan sai, nhiềuvụ bỏ lọt tội phạm. Tình huống sau đây cũng có thể được coi là một ví dụ: Trên đường đi uốngrượu về, H và Q phát hiện ra chị B cùng với hai người bạn đang say rượu nằm mêmệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toànbộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng khi cơn say đã hết chị B tỉnh giấcmới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Về vụ án này có các ý kiến sauđây về tội danh của H và Q:a. H và Q phạmtội cướp tài sản;b. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản;c. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.Anh (chị) hãyxác định ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai và giải thích rõ tại sao?d.Giả thiết rằng ngoài việc chiếm đoạt tài sản H vàQ còn có hành vi giao cấu với chị B thì bị chị này phát hiện và kêu cứu, sợ bịlộ H và Q đã bóp cổ làm chị B chết thì H và Q có phải chịu TNHS về hành vi củamình không? Nếu có thì tội danh cho hành vi của H và Q là gì? Căn cứ pháp lý? 1 – Xác định ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai và giải thích rõ tại sao? Sở dĩ vụ án này có 3 quan điểm khácnhau vì 3 tội của 3 quan điểm này có những đặc điểm chung như: Đây là các tộicó tính chất chiếm đoạt, được thực hiện do cố ý và gây ra thiệt hại về tài sản…Tuynhiên do không hiểu rõ được vụ án và các đặc trưng của từng tội cụ thể nên cũngdễ sai lầm khi định tội. Theo quan điểm của cá nhân em thì các quan điểm: H, Qphạm tội cướp tài sản; H, Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là khôngchính xác, mà với tình huống được mô tả ở trong bài tập trên phải định tội mà Hvà Q đã thực hiện là trộmcắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS vì:a. H và Q phạm tội cướp tài sản. ( quan điểm này sai) vi: Theo quy định tại điều 133-BLHS 1999 thì tội cướp tàisản là hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vikhác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằmchiếm đọat tài sản”. Ngay trong điều luật đã quy định rõ hành vi khách quan củatội này bao gồm 3 hành vi, đó là: - Hành vi dựng vũlực: dùng sức mạnh vật chất (có hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội)tác động vào người khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của người nàychống lại việc chiếm đoạt. - Hành vi đe doạdùng vũ lực ngay tức khắc: là trường hợp người phạm tội bằng lời nói hoặc bằngcử chỉ (hoặc cả hai) doạ sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại việcchiếm đoạt. Dấu hiệu “ngay tức khắc”vừa dùng để chỉ sự nhanh chóng về mắt thờigian ( sẽ xẩy ran gay lập tức) vừa dùng để chỉ sự mãnh liệt của hành vi đe dọa.Sự đe dọa này khiến cho nạn nhân thấy rằng vũ lực sẽ xẩy ra ngay, họ không cóhoặc khó có điều kiện tránh khỏi, sự đe dọa này làm cho ý chí của người bị đedọa bị tê liệt.- Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạngkhông thể chống cự được ( ví du như hành vi đầu độc, hành vi dung thuốc gâymê…). Tuy không phải là hành vi dùng vũ lực hay đe doạ dùng vũlực ngay tức khắc nhưng có khả năng đè bẹp hoặc làm tê liệt sự kháng cự làm chongười bị tấn công không thể ngăn cản được việc chiếm đoạt. Chỉ cần người phạm tộicó 1 trong 3 hành vi kể trên thì tội cướp tài sản đã hoàn thành chứ không cầnquan tâm tới người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không.Căn cư vào dâu hiệu vềmặt khách quan như đã trình bày ở trên đối chiếu vào tình huống này ta thấyhành vi của H, Q không phải là hành vi dùng vũ lực, cũng không phải là hành viđe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc và càng không phải là hành vi làm cho người bịtấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Việc chị B lâm vào tìnhtrạng không thể chống cự được hoàn toàn không phải là do hành vi của H và Q gâyra ( có nghĩa là kết quả của việc chị B mất khả năng nhận thực và không biểu lộđược ý chí không có mối quan hệ nhân quả với hành vi của H, Q). Tình trạng “chịB cùng với hai người bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường” - lâm vàotình trạng không thể chống cự được, đã xảy ra trước khi H và Q đến, có nghĩa làH và Q không “dùng thủ đoạn khác” mà chỉ lợi dụng hoàn cảnh đó để chiếm đoạt màthôi. Như vậy, trong trường hợp này chúng ta hoàntoàn có thể khẳng đinh H, Q không phạm tội cướp tài sản vì về măt khách quankhông có dâu hiệu của những hành vi trong tội cướp tài sản. Có nghĩa là khôngthỏa mạn các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm cướp tài sản. b. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.(quan điểm này cũng không chính xác) vì: Tại Điều 137 - BLHS 1999, tuy tộicông nhiên chiếm đoạt tài sản không được mô tả, nhưng qua thực tiển xét xửchúng ta có thể hiểu: Tộicông nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi lợi dụng chủ tài sản không có điềukiện ngăn cản công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ. Dođặc điểm riêng của tội công nhien chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ cóhành vi khách quan duy nhất là hành vi chiếm đoạt, nhưng chiếm đoạt bằng hìnhthức công khai, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc lợidụng vào hoàn cảnh khách quan khác như thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh... Tínhchất công khai, trắng trợn tuy không phải là hành vi khách quan nhưng lại làmột đặc điểm cơ bản đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Công nhiên chiếmđoạt tài sản trước hết là công nhiên với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản,sau đó là công nhiên với mọi người xung quanh.Tính chất công khai của hành vithể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi phạm tội của mình, và gầnnhư đồng thời lúc người phạm tội chiếm đoạt được tài sản, chủ tài sản cũng biếtđược rằng tài sản của mình đã bị mất. Có nghĩa là để cấu thành tội công nhiênchiếm đoạt tài sàn thì hành vi chiếm đoạt của người phạm tội phải có tính chấtcông khai tức là hành vi đó phải xẩy ra trong hoàn cảnh người chủ tài sản khôngcó điều kiện ngăn cản – biết có hành vi chiếm đoạt mà không làm gì được vì đãrơi vào hoàn cảnh không có điều kiện ngăn cản. Quay trở lại với tình huống trong vụán, vì “đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường” nên chị B không hề haybiết hành vi của H và Q và tất nhiên không có điều kiện ngăn cản (vì đã rơi vàohoàn cảnh không có điều kiện ngăn cản). Do đó hành vi của H và Q là hành vi mangtính chất lén lút chứ không thỏa mãn dấu hiệu công khai trước chủ tài sản, vì vậy hành vi của H, Qkhông cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.c. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản. (quanđiểm này là hoàn toàn chính xác)Điều 133-BLHS 1999 quy định: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lénlút chiếm đoạt tài sản đang có chủ và thuộc một trong các trường hợp sau:- Tài sản chiếm đoạt cógiá trị từ 500.000 đồng trở lên- Nếu dưới 500.000 đồngmà: + Gây hậu quả nghiêm trọng + Hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vichiếm đoạt mà còn vi phạm + Hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tàisản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Tài sản H, Q đã chiếm đoạt là 10 triệuđồng thõa mãn giá trị của khoản 1 điều 138 BLHS . Dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản gồm:dấu hiệu hành vi chiếm đoạt, dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có chủ. Theo đề bài, chị Bmang nữ trang bên mình như vậy tất nhiên tài sản này đang thuộc về quyền sở hữucủa chị B. Dấu hiệu chiếm đoạt trong CTTP tộitrộm cắp tài sản được hiểu là chiếm đoạt được, tội này chỉ coi là hoàn thànhkhi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. - Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã chiếmđoạt được khi người phạm tội đã giấu được tài sản trong người. - Nếu vật chiếm đoạtkhông thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản rakhỏi khu vực bảo quản. - Nếu vật chiếm đoạtlà tài sản để ở những nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng thì coi là đãchiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản ra khỏi vị trí ban đầu.Tản sản mà H và Q đãchiếm đoạt thuộc loại vật nhỏ gọn và “chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mấttài sản và đi báo công an”, có nghĩa là H và Q đã chiếm đoạt được tài sản.Dấu hiệu lén lút ởđây, nghĩa là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài sản mà chủ sở hữu hoặcngười quản lý tài sản không biết mình bị lấy tài sản, chỉ sau khi mất họ mớibiết bị mất tài sản. Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu được thực hiệnbằng hình thức mà hình thức đó có khả năng không cho phép chủ tài sản biết cóhành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra. Hình thức đó có thể là lợi dụng sơhở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản không trông giữ cẩn thận hoặc lợidụng vào hoàn cảnh khách quan khác nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vichiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết. Tuy nhiên lén lút không phải là đặc trưng duy nhất của tộitrộm cắp tài sản mà trong nhiều trường hợp người phạm tội cũng lén lút để thựchiện mục đích khác như lẻn vào nhà người khác để đặt mìn nhằm giết hại nhữngngười trong gia đình của họ, lẻn vào phòng ngủ của phụ nữ để thực hiện việchiếp dâm…vì vậy khi nói đến trộm cắp tài sản thì không thể không đi kèm vớihành vi chiếm đoạt tài sản, nếu lén lút mà không chiếm đoạt tài sản thì khôngphải là trộm cắp tài sản. Nếu chị B biết mà không thể làm đượcgì thì mới là công nhiên chiếm đoạt tài sản. Đằng này, khi H và Q phát hiện rachị B “đang say rượu nằm mê mệt bênlề đường”, chúng mới lấy đi tài sản trên người chị. Lúc này chị B đã khôngcòn khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi, rõ ràng chị B không thể biếthành vi của H và Q. Như vậy H và Q đãlợi dụng sự sơ hở của chị B để chiếm đoạt tài sản, do đó hành vi của H và Q đãthỏa mãn dấu hiệu lén lút trong CTTP của tội trộm cắp tài sản. Như vậy, định tội cho H và Q tội trộmcắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS 1999 là hoàn toàn chính xác và có cơ sở. 2 – d.Giảthiết rằng ngoài việc chiếm đoạt tài sản H và Q còn có hành vi giao cấu với chịB thì bị chị này phát hiện và kêu cứu, sợ bị lộ H và Q đã bóp cổ làm chị B chếtthì H và Q có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Nếu có thì tội danh chohành vi của H và Q là gì? Căn cứ pháp lý? Vớigiả thiết như đã nêu trên thì H và Q phải chịu TNHS về hành vi cuả mình với haitội danh nữa là tội hiếp dâm (theo điêu 111) và tội giết người theo điều 93BLHS năm 1999. Thứ nhất, theo quy định tại Điều 111 BLHS 1999thì hành vi của H, Q cấu thành tội hiếp dâm: “ Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực,đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ đươc của nạn nhânhoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ.” * Theoquy định Điều 111 BLHS 1999, tội hiếp dâm có những căn cứ pháp lý sau: - Khách thể của tội phạm: là xâm phạmquan hệ nhân than - quyền được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự. Cụ thể là quyềnđược tự do về quan hệ tình dục của ngườiphụ nữ. - Mặt khách quan của tội phạm: + Hành vi khách quan củatội phạm này là hành vi giao cấu với ngườiphụ nữ, trái ý muốn của họ, bằng thủ đoạn dùng vũ lực (dùng sức mạnh đè bẹp sựphản kháng của nạn nhân như xô ngã,vật, giữ… ), đe dọa dùng vũ lực (uy hiếp về mặt tinh thần: dọa giết, dọa gây thương tích…), lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân( lợidụng khi nạn nhân ốm, bị bại liệt ) hoặc dùng thủ đoạn khác (có thể là lợi dụngngười phụ nữ đang trong tìnhtrạng không có khả năng biểu lộ ý chí: nạn nhân bị tâm thần, bị say rượu, hoặc có thể tình trạng trên do người phạm tội tự mình tạo ra: cho nạn nhân uống rượu… ) Cấu thành tội hiếp dâm không đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao cấu với nạn nhân. Nếu người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để giao cấunhưng chưa giao cấuđược với nạn nhân vì lý do khách quan thì người này vẫn phạm tội hiếp dâm nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Hành vi giao cấu của người phạm tội phải trái ý muốn của nạn nhân, nghĩa là người phụ nữ không chấp nhận sự giao cấu. Trường hợp hành vi giao cấu xảy ra không có ý muốn của người phụ nữ vì họ đang trong tình trạng không biểu lộ ý chíđược coi cũng là “hành vi giao cấu trái ý muốn” + Hậu quả: tội hiếp dâm có cấu thànhhình thức nên hậu quả cũng như mốiquan hệ nhân quả không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành này. Nó chỉ có ýnghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội vàtừ đó có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. Công cụ, phương tiện, địa điểm... phạm tội giúp việc quyếtđịnh hình phạt được chính xác hơn. -Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của ngườiphạm tội là lỗi cố ý. Ngườiphạm tội biết hành vi giao cấu của mình là trái ý muốn của người phụ nữ nhưng vẫnmong muốn thực hiện hành vi đó bằng mọi thủ đoạn (dùng vũ lực, đe dọa dùng vũlực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân ). Động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộctrong cấu thành tội phạm này.- Chủ thể của tội phạm: Người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 14 tuổi trở lên(nếu phạm tội ở khoản 2, khoản 3, khoản 4 điều 111) hoặc 16 tuổi trở lên (nếuphạm tội ở khoản 1) có thể trở thành chủ thể của tội này. Tuy nhiên chủ thể củatội hiếp dâm là chủ thể đặc biệt. Ngườithực hiện hành vi phạm tội này chỉ có thể là nam giới. Nữ giới có thể tham giatrong vụ đồng phạm hiếp dâm với vai trò là người xúi giục, ngườigiúp sức hoặc người thực hành.Đối chiếu với tình huống trên ta thấy cả H và Q đều phạmtội hiếp dâm. Họ đều thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của chị B bằngthủ đoạn là lợi dụng lúc chị B say rượukhông biết gì, không biểu lộ được ý chí của mình để thực hiện hành vi giao cấu. Chúngta có thể làm rõ hành vi giao cấu của H, Q đối với chị là trái ý muốn bằng cáctình tiết đó là: thủ đoạn lợi dụng chị B say rượu nằm mê mệt trên đường để giaocấu, cả H, Q đều không có mối quan hệ đặc biệt với chị B như là chồng, bạntrai... và tình tiết chị B phát hiện và kêu cứu. Cả hai đều là nam giới có nănglực TNHS, đều mong muốn thực hiện hành vi giao cấu. Bởi vậy việc định cho H, Qtội hiếp dâm là hoàn toàn chính xác và có cơ sở. Ngoài ra H và Q còn là đồng phạm vì về khách quan: cả H, Q đều thực hiện hành vi giao cấuvới B, đều đóng vai trò là ngườithực hành trong vụ đồng phạm. Về mặt chủ quan: cả H, Q đều biết hành vi củamình và hành vi của ngườikhác là nguy hiểm nhưng vẫnmong muốn thực hiện hành vi phạm tội thể hiện ở việc“phát hiện chịB đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường”nên H và Q “ có hành vi giao cấu vớichị B ”. Như vậy H,Q là đồng phạm không có thông mưu trước. Mặt khác, H, Q sẽ phải chịu tráchnhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 111 BLHS với tình tiết định khung tăng năng “nhiều người hiếp một người”.Nhiều người hiếp một người là trường hợp tất cả những người tham gia đều cóhành vi giao cấu với nạn nhân. Cần làm rõ thêm việc không áp dụng tình tiết “hiếpdâm có tổ chức” theo điểm a khoản 2 Điều 111 BLHS đối với H và Q. Họ chỉphạm tội thuộc trường hợp có tổ chức khi có sự cấu kết chặt chẽ khi cùng thựchiện tội phạm. Đằng này, H và Q không có sự bàn bạc chặt chẽ từ trước vì mụcđích của chúng là trộm cắp tài sản của chị B . Do vậy, với hành vi giao cấu với chị B thì H và Q đã phạmtội hiếp dâm vơi tình tiết định khung tăng nặng “nhiều người hiếp một người”theo điểm c khoản 2 Điều 111 BLHS . Thứ hai, hành vi của H, Q còn phạm thêm tội giết người theoĐiều 93 BLHS. Theo quy định Điều 93 BLHS 1999, tội giết người có những căn cứpháp lý sau: - Khách thể: Xâm hại quan hệ nhân thân - quyền sống của con người.- Mặt khách quan:+ Hành vi khách quan:Chị B đang còn sống và hành vi của H, Q là hành vi tướcđoạt trái pháp luật tính mạng của chị B (bóp cổ đến chết). + Hậu quả và mối quan hệ nhân quả:Hành vi của H, Q là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chếtcho chị B. Do đó tội giết người của H, Q đã hoàn thành. - Mặt chủ quan: Lỗi của H, Q là lỗicố ý trực tiếp. Cả hai nhận thức được hành vi bóp cổ của mình chắc chắn gây racái chết cho chị B nhưng cả hai đều mong muốn cho chị B chết nhằm mục đích chedấu tội phạm mà cả hai đã thực hiện trước đó.- Chủ thể: H, Q đã thõa mãn là nam giới, có năng lực TNHSvà đạt đủ độ tuổi. (Tức nhiên là mặc nhiên thừa nhận). Bên cạnh đó, hành vi của H, Q đã thõa mãn tình tiết địnhkhung tăng nặng “giết người để che giấu tội phạm khác” theo điểm g khoản1 Điều 93 BLHS. Giết người để che dấu tội phạm khác làtrường hợp trước khi giết người, người có hành vi giết người đã thực hiện mộttội phạm và để che giấu tội phạm đó nên người phạm tội đã giết người, đó thườnglà do nguyên nhân sau khi phạm một tội có nguy cơ bị lộ, người phạm tội chorằng chỉ giết người thì tội phạm mà họ đã thực hiện mới không bị phát hiện.Giữa hành vi giết người của người pham tội với tội phạm mà họ đã thực hiện có mốiliên hệ với nhau, người bị giết có thể là nhân chứng, có thể là người bị hại từmột tội phạm trước và cũng có thể là người cùng thực hiện tội phạm; đó cũngchính là động lực thúc đẩy hành vi giết người của họ, nhằm che dấu tội phạm màhọ đã thực hiện. ( theo giả thiết như trên ở tình huống giết người này có mộtsố quan điểm cho rằng tội trộm cắp tàisản đã chuyển hóa thành tội cướp tài sản. Nhưng theo em thì quan diềm này hoàntoàn không có cơ sở không thể là tộitrộn chuyển hóa thành tội cướp đựơc vì mục đích ở đây không phải giành cho bằngđựoc tài sản đã chiếm đoạt mà là mục đich che giấu hành vi phạm tội trước đó.Trường hợp chuyển hóa phải là " 6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạtđược tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặcngười khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũlực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt chođược tài sản, thì trường hợp này không phải là "hành hung để tẩuthoát" mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản."(Trính. Thông tư lien tịch của tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dântối cao, bộ công an, bộ tư pháp số 02/2001/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BCA – BTP,ngày 25/12/2001 về việc áp dụng một số quy định tại chương XIV “ các tội xâmphạm sở hữu” của bộ luật hình sự năm 1999)Trong vụ án, H và Q đã có hành vi giao cấu với chị B, hànhvi đó đã cấu thành một tội độc lập đó là tội hiếp dâm và bị chị phát hiện, kêucứu. Sau đó, vì “sợ bị lộ H và Q đã bóp cổ làm chị B chết”. Như vậy, hành vi giết người của H và Q có mốiliên hệ chặt chẽ với tội hiếp dâm mà cả hai tên đã thực hiện trước đó. Mối liên hệ giữa hành vi giết người và tội hiếp dâm đã thựchiện giúp chúng ta áp dụng đúng đắn ba tình tiết định khung tăng nặng là “giếtngười để che giấu tội phạm khác” theo điểm g khoản 1 Điều 93 BLHS; “giếtngười mà liền trước đó phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”theo điểm e khoản 1 điều 93 BLHS và “hiếpdâm làm nạn nhân chết”theo điểm c khoản 3 Điều 111. Giết người màliền trước đó phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng chỉ đượcthõa mãn khi tội phạm đó không liên quanđến tội giết người, (Đối với tội trộm cắp thực hiện từ trước, tuy hành vi giếtngười không có mối quan hệ gì nhưng tội trộm cắp mà H, Q đã thực hiện lại chỉlà tội ít nghiêm trọng - 10 triệu - không phải là tội rất nghiêm trọng hoặc đặcbiệt nghiêm trọng); còn hiếp dâm làm nạn nhân chết là trường hợp mà hành vigiao cấu của người phạm tội là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết cho nạnnhân ( có thể do sức yếu, không chịu nổi sự hãm hiếp của nhiều người...). Nhưvậy, việc áp dụng, việc áp dụng tình tiết ở điểm e khoản 1 điều 93 và điểm ckhoản 3 điều 113 BLHS là không thể được. Như vậy với tình tiết được mô tả như ở đề bài và căn cứ vàocác dấu hiệu pháp lý của các tội cụ thể như đã phân tích ở trên chúng ta hoàntoàn có cơ sở đúng đắn để định tội danh đối với H và Q là:- Tộitrộm cắp tài sản theo khoản 1 diều 138 BLHS. - Tộihiếp dâm theo điểm c khoản 2 điều 111 BLHS. - Tộigiết người theo điểm g khoản 1 điều 93 BLHS. Mức hình phạt hình phạt cao nhất mà H và Q phải chịu có thểlên đến tử hình. Tội phạm nói chung là hànhvi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịuhình phạt. Còn mỗi một loại tội phạm cụ thể thì lại có những đặc điểm cấu thànhriêng và những mức hình phạt cụ thể tương ứng. Việc phân tích một cách rõ ràng CTTP của các tội phạm cụ thể vàkết hợp với những quy định chung sẽ là căn cứ vững chắc để chúng ta xác địnhđúng tội danh và mức hình phạt thích hợp trong từng trường hợp. Thông qua bài tập này, chúng ta hiểu rõ hơn về loại tội xân pham sở hữu có tính châtchiếm đạt, hiếp dâm, giết người được quy định trong BLHS năm 1999. | |
|
vuthinhuhang
Tổng số bài gửi : 3 Points : 13 Reputation : 5 Join date : 31/08/2011 Age : 33 Đến từ : Quang Ninh province
| Tiêu đề: Re: Bài tập tình huống luật hình sự Sun Sep 04, 2011 2:36 pm | |
| Thích hình sự vì toàn tình huống hay Dân luật lại toàn chọn tình huống về hiếp dâm nữa chứ, ai lý giải nổi lý do này nhỉ??? | |
|