Diễn Đàn Pháp Luật Dân Sự 33A_ Đại Học Luật Hà Nội
Diễn Đàn Pháp Luật Dân Sự 33A_ Đại Học Luật Hà Nội
Diễn Đàn Pháp Luật Dân Sự 33A_ Đại Học Luật Hà Nội
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Diễn Đàn Pháp Luật Dân Sự 33A_ Đại Học Luật Hà Nội

Bí quyết của thành công là biết tự đặt mình vào địa vị người và suy xét vừa theo lập trường của người, vừa theo lập trường của mình!
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Like/Tweet/+1
Keywords
Latest topics
» sdgvsdfbvg
đại lý hải quan.............................. Emptyby ngochoang12 Wed Apr 27, 2016 3:01 pm

» Một số vấn đề về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và cách tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể
đại lý hải quan.............................. Emptyby co luu manh Tue Jul 29, 2014 7:47 pm

» BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2005
đại lý hải quan.............................. Emptyby admin Fri Oct 12, 2012 10:41 pm

» tranh chấp quyền sử dụng nhà ở
đại lý hải quan.............................. Emptyby admin Wed Jun 27, 2012 4:47 pm

» Trường Đại học Luật Hà Nội cấp bằng Cử nhân Luật cho sinh viên khoá 33 tốt nghiệp đợt 1
đại lý hải quan.............................. Emptyby admin Sat Jun 23, 2012 7:42 am

» Giới thiệu Đại học luật Hà Nội
đại lý hải quan.............................. Emptyby admin Sat Jun 16, 2012 9:20 am

» Bảng điểm toàn khóa học DS33A 2008-2012 (Phải đăng ký thành viên mới xem được link)
đại lý hải quan.............................. Emptyby ngochoang12 Mon Jun 04, 2012 9:44 pm

» Kế hoạch tuyển sinh 2012 Học Viện Tư Pháp
đại lý hải quan.............................. Emptyby admin Sat Jun 02, 2012 7:49 am

» Phân tích và bình luận các loại ( thời hạn) của hợp đồng lao động và giải quyết bài tập tình huống
đại lý hải quan.............................. Emptyby admin Sat Jun 02, 2012 7:44 am

» Bài tập lao động học kỳ số 02:
đại lý hải quan.............................. Emptyby admin Sat Jun 02, 2012 7:41 am

» Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay-Thuc trang va giai phap- Đỗ Trường Giang_DS33A
đại lý hải quan.............................. Emptyby admin Sat Jun 02, 2012 7:36 am

» Phạm vi, nội dung sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dânGóp ý Tác giả: PGS, TS. Tường Duy Kiên - Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh Mô tả:
đại lý hải quan.............................. Emptyby admin Wed Mar 21, 2012 8:14 am

May 2024
MonTueWedThuFriSatSun
  12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  
CalendarCalendar
Affiliates
free forum


 

 đại lý hải quan..............................

Go down 
Tác giảThông điệp
tinhyeungotngao_0911

tinhyeungotngao_0911


Tổng số bài gửi : 17
Points : 33
Reputation : 5
Join date : 31/08/2011
Age : 33
Đến từ : hải phòng

đại lý hải quan.............................. Empty
Bài gửiTiêu đề: đại lý hải quan..............................   đại lý hải quan.............................. EmptySun Sep 11, 2011 7:52 am

LỜI MỞ ĐẦU
Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, trong đó, một thương nhân thực hiện hoặc nhiều thương nhân thực hiện công việc liên quan đến việc nhận hàng từ người gửi, tổ chức việc vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo sự thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Trong nền kinh tế thị trường , dịch vụ Logistics đóng một vai trò quan trong. Là một nội dung trong chuỗi dịch vụ Logistics, ĐLLTTHQ là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình làm thủ tục hải quan, nó chính là cầu nối giữa cơ quan hải quan và doanh nghiệp.
NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠI LÝ HẢI QUAN
Điều 1 Nghị định 14/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/2/2011 Quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của ĐLLTTHQ qui định: “Đại lý làm thủ tục hải quan (sau đây gọi tắt là đại lý hải quan) là thương nhân thay mặt người có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu (sau đây gọi chung là chủ hàng) thực hiện trách nhiệm của người khai hải quan theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Luật Hải quan và thực hiện các công việc khác về thủ tục hải quan theo thoả thuận trong hợp đồng.”
Theo đó, ĐLLTTHQ là chủ thể thực hiện việc khai thuê hải quan cho chủ hàng. Nói cách khác ĐLLTTHQ là tư nhân thay mặt cho Chủ hàng nhận trách nhiệm làm thủ tục kê khai Hải quan theo quy định của pháp luật và thực hiện các công việc khác về thủ tục Hải quan theo thoả thuận trong hợp đồng đã ký giữa Chủ hành và Đại lý. Trong trường hợp nếu có sai sót thì cơ quan quản lý nhà nước chỉ cần xử lý doanh nghiệp làm đại lý hải quan thay cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Là một hoạt động thương mại, ĐLLTTHQ có những đặc điểm sau:
-Về chủ thể: hoạt động của ĐLLTTHQ có sự tham gia của ba chủ thể gồm: người có hàng hóa xuất nhập khẩu (chủ hàng), bên ĐLLTTHQ và CQHQ. Trong đó, chủ hàng là bên có hàng hóa xuất nhập khẩu có nhu cầu thuê đại lý hải quan thực hiện việc kê khai thuê hải quan và một số công việc liên quan đến thủ tục hải quan theo hợp đồng. ĐLLTTHQ là bên thực hiện việc kê khai thuê hải quan cho chủ hàng. Cơ quan hải quan là đơn vị quản lý hoạt động khai hải quan tại các cửa khẩu hay tại các chi cục hải quan có chức năng.
- ĐLLTTHQ là một hình thức đại lý cung ứng dịch vụ đặc biệt. ĐLLTTHQ là một đại lý thương mại thực hiện hoạt động thay mặt và vì lợi ích của bên giao đại lý hay chủ hàng. Đây là một loại hình dịch vụ có điều kiện. Trong hoạt động ĐLLTTHQ bên ĐLHQ nhân danh mình để khai, ký tên và đóng dấu trên tờ khai hải quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu khai không đúng những thông tin và chứng từ có liên quan do chủ hàng cung cấp.
-Trong hoạt động quản lý hải quan, bên đại lý chịu sự giám sát, quản lý trực tiếp từ cơ quan hải quan. Trong hoạt động ĐLLTTHQ phát sinh 2 nhóm quan hệ: chủ hàng – bên đại lý, bên địa lý – cơ quan hải quan. Cơ quan hải quan là đơn vị quản lý hoạt động khai hải quan tại các cửa khẩu hay tại các chi cục hải quan có chức năng trong đó có hoạt động khai hải quan của bên ĐLLTTHQ.
II. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẠI LÝ LÀM THỦ TỤC HẢI QUAN
1. Sơ lược pháp luật Việt Nam về đại lý làm thủ tục hải quan
Ở Việt Nam, các doanh nghiệp làm dịch vụ khai thuê hải quan đã tồn tại từ lâu dưới hình thức tự phát là chính và chưa chịu bất kỳ một sự hướng dẫn quản lý nào từ các cơ quan quản lý nhà nước. Vào năm 1995, Cục hải quan mở lớp tập huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ khai báo hải quan và cấp giấy chứng nhận hoạt động cho từng doanh nghiệp trên địa bàn nhằm đưa hoạt động khai thuê hải quan này vào sự quản lý của cơ quan hải quan. Đến cuối năm 1998 đã có 85 doanh nghiệp được Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh tạm thời cấp giấy chứng nhận trong lĩnh vực thay mặt chủ hàng làm thủ tục hải quan tuy nhiên vấn chưa được hướng dẫn nghiệp vụ khai báo hải quan một cách đầy đủ.
Ngày 08/01/1999, đứng yêu cầu thúc kháng của các doanh nghiệp đối với loại hình này, đồng thời để triển khai đồng bộ các nội dung đã được xây dựng trong đề án cải cách thủ tục hải quan nêu tại tờ trình Thủ tướng chính phủ số 146/TCQH-GSQL ngày 14/01/1998 và được Thủ tướng chinh phủ cấp thuận tại công văn số 162/CP-KTTH ngày 17/02/1998, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan đã ra quyết định số 15/1999/QĐ-TCQH ban hành “Quy chế tạm tời quản lý dịch vụ khải thuê hải quan” thí điểm tại địa phương là Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Nội dung quy chế tạm thời cho phép tất cả các doanh nghiệp được tham gia hoạt động đăng ký làm dịch vụ này trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các điều kiện được quy định trong quy chế. Trong quyết định này quy định về thủ tục đăng kí để được làm dịch vụ khai thuê hải quan qui định khá đơn giản, dễ dàng không mất phí với mục đích là để theo dõi, quản lý việc đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ khai thuê hải quan cho nhân viên tham gia hoạt động khai thuê hải quan.
Sau khi ban hành quy chế tạm thời, tổng cục hải quan đã có nhiều văn bản hướng đã chỉ đạo hải quan địa phương triển khai đồng thời tiếp tục nhận đào đạo bồi dưỡng nghiệp vụ khai hải quan và cho đăng ký làm dịch vụ khai hải quan cho các doanh nghiệp. Đây chính là tiền đề cho sự hình thành các ĐLLTTHQ.
Năm 2005, Chính phủ ban hành 2 văn bản pháp luật là Nghị định 79/2005/NĐ-CP ngày 16/6/2005 quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của ĐLLTTHQ và Thông tư số 73/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 5/9/2005 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 79/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định về điều kiện và hoạt động của ĐLLTTHQ đã đánh dấu sự ra đời của các ĐLLTTHQ. Hai văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cụ thể rõ ràng để triển khai đội ngũ ĐLLTTHQ chuyên nghiệp, khi làm thủ tục hải quan nhân danh mình để khai, ký tên và đóng dấu trên tờ khai hải quan và chịu trách nhiệm về khai không đúng những thông tin và chứng từ liên quan do chủ hàng cung cấp, đồng thời theo khoản 1 Điều 16 Luật Hải quan thì đại lý hải quan thực hiện các công việc khác về thủ tục hải quan theo thỏa thuận hợp đồng.Đối chiếu với thông lệ quốc tế, đại lý hải quan phải tồn tại trong môi trường pháp lý rộng lớn và chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản luật khác nhau và một số văn bản pháp luật chuyên ngành quy định quy chế pháp lý về hoạt động của đại lý hải quan. Nghị định 79 cũng quy định một trong những điều kiện làm đại lý hải quan là có ít nhất một nhân viên đại lý hải quan là người được đào tạo về nghiệp vụ hải quan, được cấp Thẻ nhân viên đại lý hải quan để xuất trình cho cơ quan hải quan khi làm thủ tục hải quan.
Sau gần hơn 5 năm triển khai và thực hiện Nghị định 79/2005/NĐ-CP và Thông tư số 73/TT-BTC đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực tế thực hiện cho thấy vẫn còn một số bất cập, có một số điểm chưa phù hợp thực tiễn. Ở Điểm 2, Mục II về điều kiện làm nhân viên đại lý thủ tục hải quan tối thiểu phải có bằng tốt nghiệp Trung cấp chính quy các Ngành Luật, Kinh tế, Ngoại thương. Quy định này đã loại khả năng tuyển chọn nhân lực có bằng cấp không chính quy và không đúng với Luật Giáo dục; Điểm 3, Mục III về đào tạo, cấp chứng chỉ nghiệp vụ hải quan thời gian đào tạo học viên làm đại lý thủ tục hải quan chỉ có 17,5 ngày, chưa đủ để tiếp nhận kiến thức chuyên môn mang tính khái niệm về lĩnh vực xuất nhập khẩu; Điểm 9, Mục II quy định về khen thưởng đối với đại lý chấp hành tốt pháp luật hải quan sẽ được ưu đãi về thủ tục hải quan, hay việc ký sao chứng từ thuộc hồ sơ hải quan cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể... Bên cạnh đó trách nhiệm pháp lý của ĐLLTTHQ cũng chưa được làm rõ. Theo Nghị định 79 và Thông tư 73 thì chỉ dừng ở mức quy trách nhiệm cho ĐLLTTHQ khi sai sót chỉ đền bù theo hợp đồng. Đây là lý do khiến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thiếu tin tưởng khi làm thủ tục qua đại lý. Một vấn đề quan trọng liên quan đến “tồn tại” hay không “tồn tại” của ĐLLTTHQ là Nghị định 154/2005/NĐ-CP và Thông tư số 73/2005/TT-BTC chưa quy định rõ đại lý thủ tục hải quan được ưu tiên những gì và mức độ hỗ trợ của CQHQ đến đâu...
Xuất phát từ những bất cấp trên thì ngày 16/02/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/2011/NĐ-CP quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2011 và thay thế Nghị định số 79/2005/NĐ-CP ngày 16/6/2005 về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan. Đây chính là cơ sở pháp lý cho hoạt động của ĐLLTTHQ ở Việt Nam hiện nay.
2. Nội dung cơ bản của pháp luật về đại lý làm thủ tục hải quan hiện nay
Hoạt động của ĐLLTTHQ hiện nay được quy định tại Nghị định số 14/2011/NĐ-CP ngày 16/02/2011 quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của ĐLLTTHQ (sau đây gọi là đại lý hải quan).
2.1. Chủ thể tham gia hoạt động đại lý hải quan
2.1.1. Bên đại lý làm thủ tục hải quan
2.1.1.1. Điều kiện của đại lý làm thủ tục hải quan và nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan
ĐLLTTHQ phải là thương nhân. Thương nhân làm ĐLLTTHQ phải có đủ 04 điều kiện: Có đăng ký kinh doanh theo quy định; Có ngành nghề kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng xuất khẩu, nhập khẩu hoặc dịch vụ khai thuê hải quan ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Có ít nhất 01 nhân viên đại lý hải quan; Đáp ứng điều kiện nối mạng máy tính với cơ quan hải quan để thực hiện thủ tục hải quan điện tử (Điều 1, 2 Nghị định 14/2011/NĐ-CP thì).
Mặt khác, dịch vụ làm thủ tục hải quan là hoạt động thuộc nhóm ngành kinh doanh có điều kiện. Do đó, theo Luật doanh nghiệp 2005 thì để đại lý hải quan tiến hành kinh doanh phải thì phải đáp ứng đủ điều kiện theo quy định pháp luật. Cụ thể:
- Đại lý hải quan phải có ký quỹ để đảm bảo thực hiện điều kiện thực hiện chức năng khai hải quan thay mặt cho chủ hàng. Số tiền ký quỹ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ phải dựa trên tiêu chí: tối thiểu được xác định trên cơ sở số thuế phải nộp đối với hàng hóa XNK.
- Đại lý hải quan phải đáp ứng điều kiện cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết để đảm bảo thực hiện quy trình khai báo và làm thủ tục hải quan theo yêu cầu của cơ quan hải tại nơi đăng ký và làm thủ tục hải quan.
- Phải có đội ngũ nhân lực cần thiết hội đủ điều kiện hành nghề trong lĩnh vực khai báo và làm thủ tục hải quan theo quy định của cơ quan hải quan
- Phải có cam kết chấp hành tốt pháp luật hải quan và chịu sự quản lý của CQHQ.
Bên cạnh đó, căn cứ vào Điều 3 Nghị định số 14/2011/NĐ-CP thì nhân viên ĐLLTTHQ cũng phải đáp ứng những điều kiện nhất định:
“a) Là công dân Việt Nam.
b) Có bằng từ trung cấp trở lên thuộc các ngành kinh tế, luật.
c) Có chứng chỉ về nghiệp vụ hải quan.
d) Có thời gian làm việc cho ĐLHQ nơi được cấp thẻ ít nhất là 03 (ba) tháng.”
Trước đây, theo Nghị định số 79/2005/NĐ-CP ngày 16/6/2005 về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan thì để trở thành nhân viên của ĐLLTTHQ chỉ cần là công dân Việt Nam; có bằng từ trung cấp trở lên thuộc các ngành kinh tế, luật; có chứng chỉ về nghiệp vụ hải quan. Về điều kiệncó bằng trung cấp trở lên thuộc các ngành kinh tế, luật được Thông tư 73/2005/TT-BTC hướng dẫn cụ thể một số điều Nghị định số 79/2005/NĐ-CP hướng dẫn cụ thể là: Nhân viên ĐLLTTHQ phải có bằng tốt nghiệp chính quy của tất cả các trường trung cấp trở lên và chuyên ngành học là các chuyên ngành kinh tế và pháp luật. Đối với nhân viên của các doanh nghiệp chuyên kinh doanh dịch vụ giao nhận, vận tải hàng hóa XNK, nếu đã trực tiếp làm thủ tục hải quan ít nhất là 01 năm tính đến ngày thông tư này có hiệu lự, có bằng tốt nghiệp chính quy của các trường trung cấp trở lên, nhưng không thuộc ngành học về kinh tế và pháp luật thì vẫn coi là đầy đủ.
Theo Nghị định số 14/2011/NĐ-CP thì điều kiện làm nhân viên ĐLLTTHQ được bổ sung thêm đó là phải có thời gian làm việc cho ĐLLTTHQ nơi được cấp thẻ ít nhất là 03 tháng. Với việc bổ sung điều kiện này thì nhân viên của ĐLLTTHQ nắm được các quy định, loại hình hoạt động XNK cũng như các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, từ đó việc khai báo hải quan đảm bảo chính xác thuận lợi.
Ngoài ra, Điều 4 Nghị định 14/2011/NĐ-CP cũng quy định các đối tượng không làm nhân viên ĐLLTTHQ. Đó là trường hợp: Người thành niên bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự; Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù; Người đã bị xử lý hành chính về hành vi vi phạm pháp luật hải quan và thuế trong phạm vi một (01) năm tính đến ngày nộp hồ sơ đề nghị cấp thẻ nhân viên đại lý hải quan; Công chức, viên chức nhà nước đang tại chức. ĐLLTTHQ khi cấp thẻ nhân viên ĐLLTTHQ cho nhân viên của mình phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các điều kiện theo quy định.
ĐLLTTHQ khi cấp thẻ nhân viên ĐLLTTHQ cho nhân viên của mình phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các điều kiện họ theo quy định của pháp luật.
Nhân viên của đại lý hải quan đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 3 Nghị định 14/2011/NĐ-CP và không thuộc đối tượng quy định tại Điều 4 Nghị định 14/2011/NĐ-CP được làm hồ sơ xin cấp thẻ nhân viên đại lý hải quan theo quy định tại Điều 5, 6 Nghị định 14/2011/NĐ-CP.
Theo quy định tại Nghị định số 79/2005/NĐ-CP thì thẻ nhân viên của ĐLLTTHQ được cơ quan Hải quan cấp khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định và thời hạn cấp thẻ là trong vòng 10 ngày. Việc quy định cơ quan Hải quan cấp thẻ chưa nâng cao tính tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của ĐLLTTHQ. Do vậy, theo quy định tại Nghị định số 14/2011/NĐ-CP thì nhân viên của ĐLLTTHQ chỉ cần đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định sẽ được ĐLLTTHQ cấp thẻ trong vòng 05 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ cấp thẻ. Trường hợp từ chối cấp thẻ, đại lý hải quan phải thông báo rõ lý do bằng văn bản cho người đề nghị cấp thẻ biết. Ngoài ra, sau 03 ngày làm việc thì ĐLLTTHQ đăng danh sách người được cấp thẻ lên trang thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc quản lý, sử dụng thẻ nhân viên đại lý hải quan của đơn vị mình.
Trước khi hoạt động, đại lý hải quan phải lập hồ sơ thông báo đủ điều kiện làm đại lý hải quan gửi Cục Hải quan tỉnh nơi đóng trụ sở chính, gồm: văn bản thông báo theo mẫu do Bộ Tài chính quy định, một bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có chứng thực, bản sao chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan có chứng thực của từng nhân viên đại lý hải quan, mẫu chữ ký của người có thẩm quyền của đại lý hải quan được ký tên trên tờ khai hải quan. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Cục Hải quan tỉnh phải xác nhận và gửi thông báo xác nhận có đủ điều kiện hoạt động đại lý hải quan cho các đại lý hải quan. Trường hợp cần thời gian để xác minh thêm thì thời hạn gửi thông báo xác nhận không quá mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Cùng với việc gửi thông báo xác nhận đại lý hải quan có đủ điều kiện hoạt động, Cục Hải quan tỉnh có trách nhiệm gửi và đăng thông báo xác nhận đại lý hải quan có đủ điều kiện hoạt động đại lý hải quan trên trang thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan.
2.1.1.2. Quyền và nghĩa vụ của đại lý làm thủ tục hải quan
Hoạt động của ĐLLTTHQ bao gồm: ký hợp đồng bằng văn bản với chủ hàng; yêu cầu chủ hàng cung cấp đầy đủ, chính xác các chứng từ và thông tin cần thiết cho việc làm thủ tục hải quan của từng lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu; thực hiện các công việc về thủ tục hải quan theo thỏa thuận ghi trong hợp đồng...
Trong hoạt động của ĐLLTTHQ phát sinh hải nhóm quan hệ: chủ hàng – bên đại lý; bên đại lý – CQHQ. Theo đó, khi nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của bên đại lý hải quan chúng ta phải nhìn nhận dưới nhiều phương diện khác nhau.
* ĐLLTTHQ với tư cách là người làm thuê (người thực hiện dịch vụ)
Với tư cách là người nhận làm dịch vụ, ĐLLTTHQ có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người cung ứng dịch vụ được quy định trong Luật thương mại năm 2005 như: Quyền hoạt động thương mại; quyền bình đẳng trước pháp luật và hợp tác trong lĩnh vực thương mại; quyền cạnh tranh trong thương mại; được nhà nước bỏa hộ quyền sở hữu, quyền và các lợi ích hợp pháp khác nếu thương nhân thuộc các thành phần kinh tế các thể, tư bản tư nhân trong tương lai. Đồng thời thương nhân có nghĩa vụ đăng kí kinh doanh và có quyền được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh; được quyền yêu cầu cung cấp nội dung về đăng kí kinh doanh; thực hiện các quy định về sổ sách kế toán và lưu trữ hóa đơn, chứng từ và giấy tờ có liên quan; chấp hành các quy định về thuế; có quyền chấm dứt hoạt động thương mại.
Ngoài ra theo Điều 174 LTM năm 2005 thì ĐLLTTHQ còn có quyền,nghĩa vụ:
-Tự do thỏa thuận, ký kết hợp đồng ĐLLTTHQ với các chủ sở hữu hàng hóa hoặc đại diện hợp pháp của chủ hàng hóa. Thay mặt người có quyền và nghĩa vụ trong mặt làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải khai hải quan và thực hiện các công việc theo thỏa thuận tại hợp đồng ĐLLTTHQ. Thực hiện quyền và nghĩa vụ ghi trong hợp đồng. Khai và ký tờ khia hải quan. Yêu cầu chủ hàng bồi thường thiệt hại và các chi phí phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng đại lý của chủ hàng gây ra.
- Quyền yêu cầu chủ hàng hướng dẫn, cung cấp đầy đủ chính xác các chứng từ và thông tin cần thiết khác có liên quan để thực hiện làm thủ tục hải quan cho từng lô hàng XNK
- Quyền hưởng thù lao và những lợi ích hợp pháp khác do việc thực hiện hợp đồng mang lại
ĐLLTTHQ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước chủ hàng và cơ quan hải quan về mọi hành vi của trong phạm vi hoạt động của mình.
* Đại lí làm thủ tục hải quan với tư cách là người khai hải quan
Điều 23 Luật hải quan 2001 được sửa đổi bổ sung năm 2005 quy định khá cụ thể quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan.
Theo đó người khai hải quan có quyền: Được CQHQ cung cấp thông tin liên quan đến việc khai hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và hướng dẫn làm thủ tục hải quan; Xem trước hàng hoá, lấy mẫu hàng hoá dưới sự giám sát của công chức hải quan trước khi khai hải quan để bảo đảm việc khai hải quan được chính xác; Đề nghị CQHQ kiểm tra lại thực tế hàng hoá đã kiểm tra, nếu không đồng ý với quyết định của CQHQ trong trường hợp hàng hoá chưa được thông quan; Khiếu nại, tố cáo việc làm trái pháp luật của CQHQ, công chức hải quan; Yêu cầu bồi thường thiệt hại do CQHQ, công chức hải quan gây ra theo quy định của pháp luật; Sử dụng hồ sơ hải quan điện tử để thông quan hàng hoá; Yêu cầu CQHQ xác nhận bằng văn bản khi có yêu cầu xuất trình, bổ sung hồ sơ, chứng từ ngoài hồ sơ, chứng từ theo quy định của pháp luật về hải quan
Người khai hải quan có nghĩa vụ: Khai hải quan và thực hiện đúng quy định tại khoản 1 Điều 16, các điều 18, 20 và 68 của Luật hải quan; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự xác thực của nội dung đã khai và các chứng từ đã nộp, xuất trình, về sự thống nhất nội dung thông tin giữa hồ sơ giấy lưu tại doanh nghiệp với hồ sơ điện tử; Thực hiện các quyết định và yêu cầu của CQHQ, công chức hải quan trong việc làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá, phương tiện vận tải theo quy định của Luật hải quan; Lưu giữ hồ sơ hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan; lưu giữ sổ sách, chứng từ kế toán và các chứng từ khác có liên quan đến hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan trong thời hạn do pháp luật quy định; xuất trình hồ sơ, cung cấp thông tin, chứng từ liên quan khi CQHQ yêu cầu kiểm tra theo quy định tại điều 28, 32 và 68 Luật Hải quan; Bố trí người phục vụ việc kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải; Nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; Không thực hiện hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, gian lận thuế, đưa hối lộ hoặc các hành vi khác nhằm mưu lợi bất chính.
Ngoài ra ĐLLTTHQ còn được hưởng một số ưu đãi của CQHQ được quy định tại Điều 12 Nghị định 14/2011/NĐ-CP
* Đại lý hải quan với tư cách là người được thay mặt cho cơ quan hải quan thực hiện một số công việc của hải quan với chủ hàng
Khi thay mặt CQHQ thực hiện một số công việc của hải quan với chủ hàng, ĐLLTTHQ có một số quyền và nghĩa vụ của CQHQ. Đó là kiểm tra bộ hồ sơ hải quan; lưu giữ một số chứng từ thuộc hồ sơ hải quan đối vwois các trường hợp hàng hóa đợc thông quan trước, nộp hồ sơ hải quan sau…đồng thời ĐLLTTHQ do được nhận sự hỗ trợ của hải quan nên giúp CQHQ hướng dẫn, kiểm tra doanh nghiệp tuân thủ pháp luật hải quan, làm cho môi trường hải quan trong sạch, minh bạch.
2.1.2. Bên giao đại lý
Bên giao đại lý hay còn gọi là chủ hàng là bên có hàng hóa xuất nhập khẩu có nhu cầu thuê đại lý hải quan thực hiện việc kê khai thuê hải quan và một số công việc liên quan đến thủ tục hải quan theo hợp đồng. Như vậy, chủ hàng có thể là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có công việc chủ yêu hay ít nhiều liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa, cũng có thể là các cá nhân tổ chức có hàng hóa cần khai thủ tục hải quan. Quan hệ giữa đại lý hải quan với chủ hàng phát sinh trên cơ sở hợp đồng ủy quyền với bên đại lý hải quan. Trong quan hệ này, bên chủ hàng không những được hưởng quyền và lợi ích trong việc được đại lý thực hiện thay mà còn phải chịu trách nhiệm pháp lý khi bên đại lý có sự sai sót hay sự cố trong quá trình hoạt động theo quy định tại Điều 9 Nghị định 14/2011/NĐ-CP. Đó là các trường hợp:
“1. Ký hợp đồng với ĐLHQ về phạm vi uỷ quyền, trách nhiệm của mỗi bên.
2. Cung cấp đầy đủ, chính xác các chứng từ, thông tin cần thiết cho việc làm thủ tục hải quan của lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu cho đại lý hải quan.
3. Chịu trách nhiệm trước pháp luật trong trường hợp cung cấp không chính xác, không đầy đủ các thông tin, chứng từ liên quan đến lô hàng hoặc cung cấp các chứng từ không hợp pháp, hợp lệ theo quy định cho đại lý hải quan dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật.”
2.1.3. Cơ quan hải quan
CQHQ là đơn vị quản lý hoạt động khai hải quan tại các cửa khẩu hay tại các chi cục hải quan có chức năng. Trong hoạt động ĐLLTTHQ, cơ quan hải quan tham gia với vai trò là bên thứ ba, làm việc trực tiếp với bên đại lý đồng thời làm việc gián tiếp với bên chủ hàng. Bên đại lý phải chịu trách nhiệm trước chủ hàng và cả với cơ quan hải quan về việc làm của mình, còn chủ hàng phải chịu trách nhiệm khi không hợp đồng rõ ràng với bên đại lý hay thông thường với bên đại lý làm sai pháp luật đồng thời phải chịu trách nhiệm với cả bên đại lý vi phạm hợp đồng.
Kế thừa và phát triển những quy định của Nghị định 79/2005/NĐ-CP, Nghị định 14/2011/NĐ-CP cũng quy định rõ quyền hạn và nhiệm vụ cụ thể của cơ quan hải quan trong hoạt động đại lý hải quan.
Trước đây, theo quy định tại Nghị định 79/2005/NĐ-CP thì việc cấp thẻ nhân viên đại lý được triển khai thông qua các Cục Hải quan địa phương và Tổng cục Hải quan. Việc cấp thẻ nhân đại lý được cấp bởi Tổng cục Hải quan do 1 chuyên viên của Vụ giám sát Quản lý phụ trách việc cấp thẻ nhân viên đại lý. Việc quy định cơ quan Hải quan cấp thẻ chưa nâng cao tính tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của ĐLLTTHQ. Cho nên, trong Nghị định 79/2005/NĐ-CP việc cấp thẻ nhân viên đại lý được chính ĐLLTTHQ thực hiện.
CQHQ là cơ quan kiểm tra và giám sát hoạt động và việc thực hiện các quy định của pháp luật của ĐLLTTHQ. Điều 12 Nghị định 14/2011/NĐ-CP quy định về hỗ trợ của CQHQ đối với ĐLLTTHQ thì: CQHQ hỗ trợ miễn phí cho ĐLLTTHQ trong các lĩnh vực sau: Hỗ trợ kỹ thuật trong việc kết nối mạng giữa ĐLLTTHQ với CQHQ; hỗ trợ về thủ tục hải quan, thủ tục thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; cập nhật các quy định mới của pháp luật về hải quan; tập huấn, bồi dưỡng pháp luật về hải quan. Những lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu do ĐLLTTHQ thực hiện theo quy định tại Nghị định 14 được ưu tiên về thủ tục hải quan theo quy định của Luật Hải quan và hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Bên cạnh đó, CQHQ còn là cơ quan có quyền khen thưởng; xử lý vi phạm pháp luật; quyết định tạm dừng hoạt động của đại lý hải quan theo quy định tại Điều 13, 14 Nghị định 14/2011/NĐ-CP.
Theo đó, ĐLLTTHQ có quá trình chấp hành và thành tích tốt trong việc thực hiện pháp luật hải quan được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Trong việc xử lý vi phạm pháp luật:
- Đối với đại lý hải quan: Nếu như trong Nghị định 79/2005/NĐ quy định việc xử lý vi phạm pháp luật do Tổng cục hải quan đề nghị Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh, thành phố quyết định dừng hoạt động đại lý hải quan thì Nghị định 14/2011/NĐ quyền đề nghị đó được trao cho Cục hải quan. Theo đó, Cục Hải quan tỉnh đề nghị Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ra quyết định dừng hoạt động đại lý hải quan trong các trường hợp sau: Đại lý hải quan hoạt động không đảm bảo các điều kiện quy định tại Điều 2 Nghị định này; Đại lý hải quan thông đồng với chủ hàng để vi phạm pháp luật hải quan; Đại lý hải quan tự ý thay đổi tên, địa chỉ mà không thông báo cho Cục Hải quan tỉnh nơi đóng trụ sở chính; Đại lý hải quan đã tự chấm dứt hoạt động; Đại lý hải quan đã bị tạm dừng hoạt động hai (02) lần trong một năm mà tiếp tục vi phạm pháp luật hải quan.
- Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh quyết định tạm dừng hoạt động đại lý hải quan trong các trường hợp sau: Đại lý hải quan không thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của đại lý hải quan quy định tại Điều 1 Nghị định này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; Không chấp hành hoặc chấp hành không đúng các quyết định xử phạt của cơ quan Hải quan; Cho mượn danh nghĩa đại lý hải quan; Đại lý hải quan bị Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh xử lý vi phạm hành chính hai (02) lần trong 01 năm hoặc có 03 nhân viên bị thu hồi thẻ nhân viên đại lý hải quan.
Thời gian tạm dừng kể từ khi phát hiện các hành vi trên cho đến khi đại lý hải quan khắc phục xong hậu quả.
Nếu Nghị định 79/2005/NĐ thì khi muốn thu hồi thẻ nhân viên ĐLLTTHQ thì ĐLLTTHQ phải đề nghị CQHQ thu hồi thì đến Nghị định 14/2011/NĐ để đảm bảo sự chủ động của các ĐLLTTHQ mà đã giao việc thu hồi thẻ nhân viên ĐLLTTHQ bị dừng hoặc tạm dừng hoạt động đã cấp cho ĐLLTTHQ. Việc cấp lại thẻ nhân viên được thực hiện khi đại lý được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đồng ý tiếp tục hoạt động.
- Đối với nhân viên đại lý hải quan: ĐLLTTHQ có trách nhiệm và quyết định thu hồi thẻ của nhân viên ĐLLTTHQ khi nhân viên đại lý có một trong những hành vi sau:
- Có hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế;
- Cho người khác sử dụng thẻ của mình hoặc sử dụng thẻ của người khác;
- Sử dụng thẻ để làm thủ tục hải quan đối với lô hàng của doanh nghiệp không ký hợp đồng với ĐLLTTHQ nơi nhân viên đại lý hải quan làm việc;
- Có hành vi hối lộ cán bộ, công chức hải quan hoặc có các hành vi vi phạm pháp luật về thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Khi thu hồi thẻ của nhân viên ĐLLTTHQ thì ĐLLTTHQ phải thông báo danh sách nhân viên ĐLLTTHQ bị thu hồi thẻ theo mẫu do Bộ Tài chính quy định đến Cục Hải quan tỉnh nơi đóng trụ sở chính và gửi đăng trên trang thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan.
Các hành vi vi phạm pháp luật khác của ĐLLTTHQ và nhân viên trong lĩnh vực hải quan, tùy theo mức độ sẽ bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
2.2. Chấm dứt quan hệ hải quan
ĐLLTTHQ cũng như các hoạt động dịch vụ thương mại khác luôn tồn tại trong một phạm vi thời gian và không gian nhất định vì nhiều lý do khác nhau. Cụ thể:
a) Chấm dứt theo sự thỏa thuận của các bên
Việc ký kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện nên khi các bên thấy hợp đồng không còn có ích thì có thể thỏa thuận để chấm dứt nó. Là một loại hợp đồng thương mại nên hợp đồng ĐLLTTHQ cũng chấm dứt theo quy định của một hợp đồng thương mại. Hợp đồng có thể chấm dứt khi có thỏa thuận chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng đã thực hiện xong, hết thời hạn hiệu lực.
b)Chấm dứt theo ý chí của một bên
Theo quy định tại Điều 177 LTM 2005 thì các bên tham gia hợp đồng ĐLLTTHQ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý trong trường hợp:
- Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không có lợi cho bên chủ hàng
- Chủ hàng không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện không đúng theo thỏa thuận thì bên đại lý có quyền đơn phương chấm dưt hợp đồng. việc chấm dứt hợp trong trong thời hạn theo quy định tại Điều 177 LTM, chỉ cần thông báo bằng văn bản cho bên kia việc chấm dứt hợp đồng.
c)Chấm dứt khi có vi phạm pháp luật, bắt buộc phải chấm dứt hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan.
Các trường hợp chấm dứt hoạt động ĐLLTTHQ được quy định cụ thể tại Điều 14 Nghị định 14/2011/NĐ-CP. Đó là các trường hợp:
- ĐLHQ hoạt động không đảm bảo các điều kiện quy định tại Điều 2 Nghị định này;
- Đại lý hải quan thông đồng với chủ hàng để vi phạm pháp luật hải quan; ĐLHQ tự ý thay đổi tên, địa chỉ mà không thông báo cho Cục Hải quan tỉnh nơi đóng trụ sở chính;
- Đại lý hải quan đã tự chấm dứt hoạt động;
- Đại lý hải quan đã bị tạm dừng hoạt động hai (02) lần trong một năm mà tiếp tục vi phạm pháp luật hải quan.
III-THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CỦA ĐẠI LÝ LÀM THỦ TỤC HẢI QUAN Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
3.1. Hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan vào thời điểm trước ngày 1/4/2011
3.1.1. Ưu điểm:
Qua thực tế cho thấy, lợi ích mà ĐLLTTHQ có thể mang lại cho các chủ hàng và cơ quan Hải quan là hết sức rõ ràng và thiết thực. Thời điểm trước ngày 1/4/2011 là thời điểm trước khi Nghị định số 14/2011/NĐ-CP có hiệu lực thì, hoạt động của ĐLLTTHQ ở Việt Nam được điều chỉnh bởi hai văn bản đó là: Nghị định 79/2005/NĐ-CP ngày 16/6/2005 quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của ĐLLTTHQ và Thông tư số 73/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 5/9/2005 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 79/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định về điều kiện và hoạt động của ĐLLTTHQ. Đây là hai văn bản đánh dấu một bước tiến lớn trong việc góp phần đáng kể vào việc đẩy mạnh quy trình thông quan hàng hóa. Sau hơn 5 năm được triển khai thực hiện hai văn bản này đã về cơ bản đã giúp ĐLLTTHQ phát huy được những vai trò quan trọng của mình trong thực tiễn đối với cả các chủ hàng và CQHQ. Cụ thể:
- Đối với các chủ hàng, thông qua vai trò bảo lãnh của ĐLLTTHQ, sẽ giảm thiểu được các sai sót trong khai báo, thông quan lô hàng một cách nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian và nhiều chí phí lưu kho, lưu bãi…, hạn chế được tiêu cực do nhân viên mình trực tiếp làm việc với công chức hải quan ở các khâu nghiệp vụ.
- Đối với CQHQ, một trong những yếu tố góp phần đẩy nhanh tiến trình cải cách hiện đại hoá ngành Hải quan chính là hoạt động chuyên nghiệp của hệ thống ĐLLTTHQ. Thông qua việc hỗ trợ hoạt động của các đại lý khai thuê hải quan, CQHQ tiếp tục tạo thuận lợi cho môi trường phát triển thương mại quốc tế và thu hút đầu tư vào Việt Nam, cũng như tạo động lực thúc đẩy sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp phụ trợ nội địa.
- Các ĐLLTTHQ đã bước đầu hình thành được hệ thống ĐLHQ, đội ngũ nhân viên đại lý chuyên nghiệp
- Thông qua hoạt động ĐLLTTHQ, hải quan đã hình thành phương pháp quản lý mới về thủ tục hải quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
- Việc đưa hệ thống ĐLLTTHQ vào hoạt động đã góp phần hỗ trợ các nhân viên Hải quan và doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục thông quan. Các nhân viên làm thủ tục của các đại lý được đào tạo cơ bản đã hạn chế sai sót, nhầm lẫn trong khai báo, tính thuế, phân loại hàng hóa. Các nguy cơ về gian lận, chậm chễ trong thông quan cũng được giảm
- Tổng cục Hải quan đã tổ chức hội nghị sơ kết hoạt động ĐLTTHQ tại khu vực phía Nam và Bắc, rút ra ra kinh nghiệm quý báu, mặt được, mặt chưa được, kiện toàn bộ máy thực hiện, phát triển hệ thống ĐLTTHQ trong thời gian tới.
- Tổng cục Hải quan đã thành lập tổ công tác triển khai xây dựng ĐLTTHQ mẫu, tổ chức hội nghị chuyên đề tại các tỉnh thành lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, bàn biện pháp tháo gỡ khúc mắc về cơ chế chính sách thực hiện ĐLTTHQ; đồng thời hỗ trợ các DN ĐLTTHQ về nghiệp vụ…Trang web của Tổng cục Hải quan đã cập nhật các văn bản quy định và hướng dẫn liên quan đến ĐLTTHQ để các đơn vị hải quan, ĐLTTHQ và cộng đồng DN tra cứu. Qua hộp thư điện tử của web, Tổng cục Hải quan sẽ trả lời kịp thời câu hỏi của DN XNK và ĐLTTHQ khi gặp phải những vướng mắc phát sinh trên thực tế tham gia hoạt động làm thủ tục XNK.
3.1.2. Khó khăn tồn tại
Bên cạnh những ưu điểm trên thì trong thời gian này việc phát triển các ĐLLTTHQ vẫn chưa đạt được sự mong đợi kì vọng và còn khá nhiều bất cập tồn đọng. Cụ thể:
Thứ nhất, qua 5 năm số lượng các ĐLLTTHQ được công nhận vẫn còn ở con số khá khiêm tốn. Tính đến tháng 11 năm 2010, cả nước mới chỉ có 91 doanh nghiệp được công nhận là LHQ, các khai và làm thủ tục hải quan được 69.652 nghìn tờ khai hải quan. Con số này còn nhỏ so với tổng số khoảng 2,5 đến 3 triệu tờ khai xuất nhập khẩu (XNK)/năm.
Thứ hai, thực tế hiện nay việc thuê ĐLLTTHQ làm thủ tục thông quan hàng hoá XNK không có lợi ích đặc biệt nào so với tự đi làm hay thuê dịch vụ khai thuê hải quan, dù là CQHQ đã bố trí khu vực ưu tiên làm thủ tục riêng cho các ĐLTTHQ. Do đó, các DN không mấy mặn mà đối với ĐLLTTHQ.
Thứ ba, các ĐLTTHQ chưa thể làm tròn hết được chức năng, nhiệm vụ đúng như theo quy định là có thể đại diện và thực hiện đầy đủ các quyền lợi, nghĩa vụ hợp pháp cho DN thuê mình. Ông Mai Hùng Việt, Phó Giám đốc Công ty cổ phần dịch vụ sản xuất kinh doanh XNK cho hay, mặc dù ĐLTTHQ đứng tên trên tờ khai của doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hải quan XNK hàng hóa, còn việc nộp thuế vẫn do DN thực hiện. Bởi vì, ĐLLTTHQ cho nhiều DN, không thể ứng trước một số tiền lớn để nộp thuế của nhiều lô hàng cho DN được. Hơn nữa, nếu ĐLTTHQ được chủ hàng uỷ quyền nộp thuế thay theo hợp đồng đại lý, Hải quan cũng thu thuế được theo mã số thuế của đại lý. Nhưng số thu này không phải doanh thu của đại lý, đại lý thu lại số tiền thuế của chủ hàng bằng chứng từ nào đúng theo quy định của cơ quan thuế… Hiện nay, đối với những lô hàng phải nộp thuế ngay, thường thì doanh nghiệp đưa tiền cho đại lý nộp hộ, chứ chưa thực hiện được việc nộp thuế cho doanh nghiệp từ tài khỏan của đại lý.
Thứ tư, Bộ Tài chính đánh giá, trong giai đoạn đầu thực hiện Nghị định 79/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2006 của Chính phủ quy định điều kiện hoạt động của ĐLTTHQ, các đơn vị trong ngành Hải quan chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc phát triển ĐLTTHQ, khiến không ít DN khai báo hải quan thông qua lực lượng “cò”, gặp phải những rủi ro, thua thiệt cho DN. ĐLTTHQ thiếu về lượng lại yếu về chất. Dẫn chứng, tại TP. Hồ Chí Minh (địa bàn có lưu lượng hàng hóa XNK lớn nhất nước, trong số các DN đăng ký hoạt động ĐLTTHQ thì chỉ có khoảng 17% (5/33) DN hoạt động đúng nghĩa ĐLTTHQ. Nhiều DN ĐLTTHQ làm dịch vụ khai thuê cho DN XNK, nhưng không ký tên đóng dấu trên tờ khai, vì còn e ngại trách nhiệm pháp lý. Cũng theo đánh giá của Bộ Tài chính, hiện nay, phần lớn các ĐLTTHQ chưa có kế hoạch cụ thể về việc mở rộng hoạt động. Trình độ nghiệp vụ của nhân viên DLTTHQ chưa thực sự đồng đều, chưa cập nhật chính sách, nắm vững kiến thức cơ bản, quy trình liên quan đến hoạt động XNK, như về mã hàng hóa, giá tính thuế và công tác thanh khoản trong các hợp đồng gia công, sản xuất XK...
3.1.3. Nguyên nhân của thực trạng trên - sự cần thiết để sửa đổi bổ sung Nghị định 79/2005/NĐ-CP
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, trong đó nguyên nhân lớn nhất vẫn là xuất phát từ cơ sở pháp lý chưa hoàn chỉnh. Điển hình như:
- Một trong những khung hành lang pháp lý chính đối với hoạt động của ĐLTTHQ tại thời điểm này là Thông tư số 73/2005/TT-BTC. Tuy nhiên, theo phán ảnh của các ĐLTTHQ và các cơ quan hải quan địa phương, các quy định tại Thông tư trên đang phát sinh nhiều vướng mắc, cản trở hoạt động của các ĐLTTHQ. Chẳng hạn như vấn đề liên quan đến đối tượng được ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan. Theo quy định, khi làm thủ tục hải quan, ĐLLTTHQ nhân danh mình để khai, ký tên và đóng dấu trên tờ khai hải quan trên cơ sở hợp đồng đã ký với chủ hàng hoá XNK. Quy định như vậy chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ĐLTTHQ, vì nếu ĐLTTHQ có nhiều chi nhánh trên toàn quốc và tiến hành thủ tục tại bất cứ đơn vị hải quan nào, thì chi nhánh này lại không có thẩm quyền ký tên trên tờ khai, và phải gửi ra trụ sở chính ký, đóng dấu.
- Liên quan đến điều kiện làm ĐLTTHQ, DN phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện nêu tại điều 2 của Nghị định số 79/2005/NĐ-CP. Riêng về điều kiện kết nối mạng máy tính của đại lý hải quan với cơ quan Hải quan quy định tại khoản 4, điều 2, Nghị định số 79/2005/NĐ-CP được hiểu là: Các chứng từ hải quan điện tử tuân thủ theo chuẩn dữ liệu hải quan và hệ thống phần cứng phù hợp; Thực hiện được việc truyền dữ liệu đến cơ quan Hải quan và nhận kết quả phản hồi từ cơ quan Hải quan theo tiêu chuẩn. Tuy nhiên lại chưa quy định cụ thể tiêu chuẩn kết nối máy tính của ĐLTTHQ với cơ quan Hải quan và các chứng từ hải quan điện tử.
- Một trong những khó khăn nữa của DN là quy định về điều kiện làm nhân viên ĐLTTHQ. Theo báo cáo của nhiều cục hải quan địa phương, rất nhiều DN kiến nghị rằng nên cho phép nhân viên tốt nghiệp các trường đại học (có thể tốt nghiệp đại học hệ tại chức, mở rộng hoặc từ xa) được xem xét để cấp thẻ.
- Thay vì theo quy định của Nghị định số 79 và Thông tư số 73, nhân viên đại lý phải có bằng cấp từ trung cấp hệ chính quy trở lên các chuyên ngành kinh tế và luật. Điều này đã hạn chế nhiều đối tượng và khó khăn cho DN khi mở rộng hoạt động trên nhiều địa bàn,làm thủ tục cho nhiều DN cùng một lúc.
Tóm lại chính từ những lý do trên mà “đội ngũ” ĐLLTTHQ vẫn chưa hoạt động được theo đúng chức năng được mong đợi là "cánh tay nối dài" của cơ quan Hải quan. Do đó, vấn đề đặt ra là phải sửa đổi một số điều của Nghị định 79/2005/NĐ-CP cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế Việt Nam, xu hướng hội nhập quốc tế.
3. 2. Pháp luật đại lý hải quan từ ngày 1/4/2011 đến nay
Từ ngày 1/4/2011 thì hoạt động của đại lí làm thủ tục hải quan sẽ được điều chỉnh bởi Nghị định số 14/2011/NĐ-CP, ngày 16/02/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/2011/NĐ-CP thay thế Nghị định 79/2005/NĐ-CP quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan chính thức có hiệu lực trên thực tiễn. Nhằm thúc đẩy và khắc phục những bất cập còn tồn tại trong phát luật của như hoạt động của ĐLLTTHQ trên thực tiễn thì Nghị định mới đã bổ sung sửa đổi, giải quyết được những vướng mắc, bất cập về các điều kiện, hoạt động của ĐLLTTHQ tại Nghị định cũ. Cụ thể:
Điều kiện làm nhân viên ĐLHQ được bổ sung thêm đó là phải có thời gian làm việc cho ĐLHQ nơi được cấp thẻ ít nhất là 03 tháng. Với việc bổ sung điều kiện này thì nhân viên ĐLLTTHQ nắm được các quy định, loại hình hoạt động XNK cũng như các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, từ đó việc khai báo hải quan đảm bảo chính xác thuận lợi.
Theo quy định tại Nghị định cũ thì thẻ nhân viên của ĐLLTTHQ được cơ quan Hải quan cấp khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định và thời hạn cấp thẻ là trong vòng 10 ngày. Việc quy định cơ quan Hải quan cấp thẻ chưa nâng cao tính tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của ĐLLTTHQ. Do vậy, theo quy định tại Nghị định số 14/2011/NĐ-CP thì nhân viên của ĐLLTTHQ chỉ cần đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định sẽ được ĐLLTTHQ cấp thẻ trong vòng 05 ngày. ĐLLTTHQ đăng danh sách người được cấp thẻ lên trang thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc quản lý, sử dụng thẻ nhân viên đại lý hải quan của đơn vị mình.
Một điểm mới phải kể đến trong Nghị định 14/2011/NĐ-CP là việc ưu tiên đối với đại lý thủ tục hải quan quy định tại khoản 2 Điều 12 của Nghị định “Những lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu do đại lý hải quan thực hiện theo quy định tại Nghị định này được ưu tiên về thủ tục hải quan theo quy định của Luật Hải quan và hướng dẫn của Bộ Tài chính”. Với quy định này sẽ tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển của ĐLLTTHQ, cộng động doanh nghiệp đến với ĐLLTTHQ hơn nữa tạo thuận lợi cho việc làm thủ tục thông quan chính xác hơn.
Như vậy, với việc ban hành Nghị định số 14/2011/NĐ-CP thay thế Nghị định 79/2005/NĐ-CP ngày 16/6/2005 quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của ĐLLTTHQ đã tạo tiền đề pháp lý phù hợp với sự phát triển thực tế. Từ đó thúc đẩy, mở rộng hoạt động của các ĐLLTTHQ để thực sự trở thành nhân tố trong tiến trình cải cách hiện đại hoá hải quan, giúp ngành Hải quan giảm tải áp lực công việc, khi khối lượng hàng hoá và nhu cầu XNK của doanh nghiệp ngày càng tăng.
Theo Nghị định (NĐ) số 14/2011/CP về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan do Chính phủ mới ban hành, đại lý làm thủ tục hải quan (ĐLHQ) sẽ được tạo thuận lợi để phát triển. ĐLHQ phát triển sẽ làm giảm thời gian, chi phí của doanh nghiệp (DN) trong hoạt động xuất nhập khẩu (XNK), đồng thời cung cấp cho cơ quan hải quan những số liệu chính xác liên quan tới hoạt động kinh doanh của DN
Hiện nay nghị định mới này mới có hiệu lực hơn 1 tháng nên vẫn chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể thay thế thông tư số 73/2005/TT-BTC, do đó vấn đề đặt ra trước mắt là cần ban hành thông tư hướng dẫn cụ thể để nghị định 14/2011/NĐ-CP cũng như pháp luật về hoạt động ĐLLTTHQ được hoàn thiện hơn.
KẾT LUẬN
Hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO, sự cạnh tranh giữa các nền kinh tế ngày càng gay gắt, đòi hỏi các nước thành viên phải tận dụng lợi thế, phát huy sức mạnh. Chuyên môn hóa là một trong những giải pháp để tăng năng suất, phát huy lợi thế cạnh tranh của mỗi quốc gia và việc phát triển ĐLLTTHQ không nằm ngoài mục đích đó. Một khi ĐLLTTHQ hoạt động chuyên nghiệp sẽ giúp giảm chi phí của doanh nghiệp hoạt động XNK về nhân lực, thời gian, giảm thời gian khai hải quan và thông tin khai hải quan cũng chính xác hơn, từ đó giúp giảm thời gian thông quan cho các lô hàng. Do đó, đòi hỏi trong những năm tới đây, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xây dựng những biện pháp cụ thể để ĐLLTTHQ phát triển và thực sự trở thành "cánh tay nối dài" của ngành hải quan.
Về Đầu Trang Go down
 
đại lý hải quan..............................
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Pháp Luật Dân Sự 33A_ Đại Học Luật Hà Nội :: Tài liệu học tập và tham khảo :: Luật Kinh tế-
Chuyển đến